Một trong những điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 là việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo Điều 5 của luật này. Theo quy định tại Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, các trường hợp cấm kết hôn bao gồm:
1/ Kết hôn giả tạo
Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình. (Khoản 11 Điều 3 Luật HNVGĐ năm 2014).
Như vậy, nếu ai lợi dụng việc kết hôn để thực hiện những hành vi nêu trên thì thuộc trường hợp kết hôn giả tạo và thuộc trường hợp bị pháp luật nghiêm cấm.
Trên thực tế thì việc kết hôn giả tạo vẫn được đảm bảo về thủ tục pháp lý, những cặp vợ chồng dù chỉ kết hôn giả tạo vẫn được cấp Giấy chứng nhận đăng kí kết hôn. Tuy nhiên, hôn nhân giả tạo thực chất chỉ là cuộc hôn nhân theo hợp đồng thỏa thuận trái với quy định pháp luật vì những lợi ích nào đó chứ không xuất phát từ tình yêu với mục đích xây dựng hạnh phúc gia đình.
2/ Tảo hôn
Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn. (Khoản 8 Điều 3 Luật HNVGĐ)
Theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 8 LUật HNVGĐ, độ tuổi đăng ký kết hôn là nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên. Tuổi kết hôn được xác định theo ngày tháng năm sinh (theo khoản 1 điều 2 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP).
Như vậy, khi nam, nữ kết hôn mà chưa đủ tuổi kết hôn là một trong những trường hợp cấm kết hôn. Trong trường hợp nam, nữ chưa đủ tuổi mà vẫn duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật thù bị Toà án phạt hành chính từ 1-3 triệu đồng.
3/ Cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn
Theo khoản 9 Điều 3 Luật HN&GĐ, cưỡng ép kết hôn được quy định như sau: “Là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác buộc người khác phải kết hôn trái với ý muốn của họ.”
Điều này là trái với điều kiện để nam, nữ kết hôn là “việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện quyết định” (theo điểm b khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ).
4/ Cản trở kết hôn
Cản trở kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HNVGĐ.(khoản 10 điều 3 luật HNVGĐ năm 2014)
Nếu vi phạm về hành vi này thì bị phạt tiền từ 03 – 05 triệu đồng điểm đ khoản 1 Điều 59 Nghị định 82 của Chính phủ.
5/ Kết hôn với người đang có vợ hoặc có chồng
Theo điểm c khoản 1 điều 5 quy định, Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ thì bị cấm kết hôn.
Đây là hành vi vi phạm pháp luật mà còn vi phạm đạo đức, hành vi này còn có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
6/ Những người không được kết hôn với nhau
Cấm kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa:
-
- Những người cùng dòng máu về trực hệ: Là những người có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau
-
- Những người có họ trong phạm vi ba đời: Là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba
-
- Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
7/ Yêu sách của cải trong kết hôn
Yêu sách của cải trong kết hôn là việc đòi hỏi về vật chất một cách quá đáng và coi đó là điều kiện để kết hôn nhằm cản trở việc kết hôn tự nguyện của nam, nữ. (khoản 12 điều 3 luật HNVGĐ)
Yêu sách của cải trong kết hôn chỉ là hành vi bị cấm nếu nhằm mục đích cản trở việc kết hôn tự nguyện của nam, nữ – một trong những nguyên tắc quan trọng khi đăng ký kết hôn. Và hành vi này sẽ bị phạt tiền từ 03 – 05 triệu đồng (theo điểm đ khoản 1 Điều 59 Nghị định 82).
8/ Hôn nhân đồng tính không được thừa nhận
Tại khoản 2 điều 8 Luật HNVGĐ năm 2014 khẳng định Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
Bởi vậy, khi người cùng giới tính sống chung với nhau như vợ chồng thì các quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng sẽ không được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Trên đây là những trường hợp cấm kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.