Luật An Trí Việt

TÌNH HUỐNG TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN ĐẤT ĐAI SỐ 03 NGÀY 09/12/2022

Tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, đòi lại nhà cho sử dụng nhờ, lấn chiếm...

1. Câu hỏi tình huống

Nguồn gốc phần đất có diện tích 258,1 m2, thuộc thửa đất số 144, tờ bản đồ số 28, tọa lạc tại ấp X, xã Y, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh là của ông T, bà C nhưng bà C, ông T đã tặng cho con trai là anh Ngô Văn S và anh S được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 28-6-2018. Sau đó, anh Ngô Văn S đã thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vay tiền Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) -chi nhánh huyện Tân Châu. Đến ngày 22-3-2021 S nợ ngân hàng số tiền là 187.167.943 đồng.

Ngày 22-3-2021, anh S lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích đất trên cho anh Ngô Thành L (chồng cũ của tôi), vợ chồng ông T bà C (bố mẹ S) đồng ý ký tên vào văn bản bán đất cho anh L; ngày 08-4-2021, anh L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 21-10-2021, anh L lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích đất trên cho tôi; ngày 18-11-2021, tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngoài ra, anh S còn nợ tôi (Đ) một số tiền, tôi và anh S thỏa thuận sẽ cho anh S vay thêm tiền để trả nợ Ngân hàng, lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra sang tên cho anh L để trừ số tiền nợ tôi là 420.000.000 đồng, phù hợp với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất viết bằng giấy viết tay, lập ngày 10-02-2021 ghi giá chuyển nhượng là 420.000.000 đồng và anh S xác nhận sang nhượng nhà đất để trừ nợ.

Ngày 09/11/2021 tôi có thông báo cho ông T (bố S) dọn nhà đi thì ông T hẹn 10 ngày, sau đó xin nửa tháng sẽ dọn đi. Trong thời gian chờ ông T dọn nhà thì tôi có làm hàng rào đất thì bị vợ ông T ngăn cản và vợ chồng ông T không dọn nhà đi nữa đồng thời yêu cầu tôi đưa lại giấy nợ và sổ đỏ của tôi cho ông, bà giữ thì mới dọn nhà đi. UBND xã đã hòa giải nhưng không thành. Nhờ Luật sư tư vấn, hỗ trợ!

2. Nhận định

đòi đất

Thứ nhất, quan hệ pháp luật của tình huống là: Tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm…

Thứ hai, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh S cho anh L và anh L cho chị Đ là hợp pháp. Căn cứ điều 97, 100 Luật Đất đai 2013 Việc cấp GCNQSDĐ cho anh L và chị Đ cũng tuân thủ đúng quy định pháp luật.

Thứ ba, ông T, bà C (bố mẹ S) thừa nhận và xác nhận việc anh S bán thửa đất và căn nhà cho anh L, chị Đ. Đồng thời, ngày 09-11-2021 ông T, bà C cam kết đến ngày 19-11-2021 sẽ giao nhà đất cho chị Đ.

Thứ tư, căn cứ vào các Điều 160, 166 của Bộ luật Dân sự năm 2015, anh S và vợ chồng ông T-bà C thống nhất giao nhà và đất cho chị Đ với điều kiện chị Đ giao các giấy nợ giữa anh S với chị Đ và giấy CNQSDĐ của chị Đ. Xét thấy nợ tiền giữa anh S và chị Đ đã hoàn trả xong xuôi, anh S và vợ chồng ông T- bà C không có nợ bất cứ khoản tiền nào của chị Đ. Như vậy, yêu cầu giao giấy nợ của anh S và yêu cầu chị Đ giao giấy CNQSDĐ của ông T – bà C là không có cơ sở.

Thứ năm, căn cứ Điều 203 của Luật đất đai năm 2013, UBND xã đã hòa giải không thành tranh chấp đất đai. Như vậy, chị Đ có quyền khởi kiện ông T bà C ra toà án huyện Tân Châu để được giải quyết và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý Khách hàng vui lòng liên hệ với chuyên viên, luật sư của Công ty Luật TNHH An Trí Việt qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 0913169599, E-mail: antrivietlaw@gmail.com. Địa chỉ: Số 10BT2 khu nhà ở Trung Văn, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.

5/5

Các dịch vụ chính

Bài viết liên quan